Chiến thắng Bạch Đằng 1288

Bối cảnh lịch sử trước chiến thắng Bạch Đằng 1288




Nghe Podcast

Thank you for reading this post, don't forget to subscribe!

Vào thế kỷ XIII, đế quốc Mông – Nguyên dưới triều đại Hốt Tất Liệt đã mở rộng lãnh thổ xuống phía nam. Sau khi tiêu diệt nhà Nam Tống, quân Mông – Nguyên ráo riết chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Hốt Tất Liệt nhiều lần gửi yêu sách đòi các vua Trần sang triều cống và thần phục, nhưng triều đình nhà Trần kiên quyết cự tuyệt. Đối mặt với nguy cơ ngoại xâm khổng lồ, vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông chủ trương kháng chiến chống Nguyên Mông đến cùng, khơi dậy tinh thần độc lập của lịch sử Việt Nam.

Ngay từ tháng 10/1282, Trần Nhân Tông đã triệu tập hội nghị Bình Than để họp bàn chiến lược với các vương hầu tướng lĩnh. Cuối năm 1284, Thượng hoàng Trần Thánh Tông lại mở Hội nghị Diên Hồng tại kinh thành Thăng Long, triệu tập các bô lão tiêu biểu để trưng cầu dân ý về việc nên hòa hay đánh. Kết quả thật hào hùng: tất cả đồng thanh hô “đánh!” – biểu tượng cho ý chí “cả nước đồng lòng” quyết chống giặc ngoại xâm.

Nhờ thế, ý chí quyết chiến lan tỏa khắp nước, từ triều đình đến nhân dân, đặt nền móng vững chắc cho những thắng lợi vẻ vang sau này. Trước năm 1288, quân dân nhà Trần đã hai lần đương đầu và đẩy lùi các cuộc xâm lược của đế quốc Nguyên Mông. Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất (1258) kết thúc với chiến thắng của vua Trần Thái Tông, buộc đạo quân Mông Cổ do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy phải rút lui sau vài tháng tiến vào Thăng Long.

Đến lần xâm lược thứ hai (1285), Hốt Tất Liệt huy động một lực lượng lớn hơn, chia làm hai hướng: Thoát Hoan, con trai Hốt Tất Liệt, chỉ huy đại quân từ phía bắc đánh xuống, còn tướng Toa Đô dẫn quân từ Chiêm Thành đánh lên. Trước thế giặc mạnh, quân Trần thực hiện kế sách “vườn không nhà trống”, vừa rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng, vừa triệt để vây hãm, tiêu hao sinh lực địch.

Trong cuộc chiến cam go năm 1285, nhiều trận đánh nổi tiếng đã diễn ra: quân dân nhà Trần phản công mãnh liệt ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, khiến quân Nguyên thua chạy tan tác. Chủ tướng Toa Đô bị chém đầu, còn Thoát Hoan hoảng sợ phải chui vào ống đồng để trốn về nước, kết thúc thất bại thảm hại của cuộc xâm lược lần hai.

A digital historical painting portraying four Yuan Dynasty commanders involved in the 1288 invasion of Đại Việt: Toghon (Thoát Hoan), Omar (Ô Mã Nhi), Zhang Wenhu (Trương Văn Hổ), and Fan Yi (Phàn Tiếp), wearing accurate 13th-century Mongol and Chinese military attire.

Bốn tướng lĩnh chủ chốt của đế quốc Nguyên trong chiến dịch xâm lược Đại Việt năm 1288 – từ trái qua: Thoát Hoan, Ô Mã Nhi, Trương Văn Hổ, Phàn Tiếp. Mặc trang phục giáp trụ Mông Cổ – Hán đúng thế kỷ XIII, hình ảnh thể hiện đội ngũ chỉ huy bị đánh bại trong trận Bạch Đằng lịch sử.

Tuy hai lần đại bại, đế chế Nguyên Mông chưa từ bỏ tham vọng thôn tính Đại Việt và các nước Đông Nam Á. Năm 1287, Hốt Tất Liệt phát động cuộc xâm lược lần thứ ba với quy mô lớn chưa từng có, quyết tâm chinh phục Đại Việt rồi tiến đánh Chiêm Thành. Quân Nguyên huy động khoảng 300.000 quân cùng hàng trăm chiến thuyền, chia làm ba mũi: bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy tiến vào từ biên giới phía bắc; cánh quân thủy do Ô Mã Nhi cầm đầu vượt biển tiến xuống Vịnh Hạ Long; và một đoàn thuyền lương khổng lồ do Trương Văn Hổ chỉ huy chở lương thực, vũ khí, đi theo đường biển để tiếp vận.

Hình minh họa chi tiết và chân thực một chiến thuyền gỗ của quân Nguyên Mông đang di chuyển trên sông Bạch Đằng trong trận chiến năm 1288. Con thuyền có một cột buồm với cánh buồm lớn đã bị rách tả tơi, thân thuyền gỗ màu nâu sẫm có dấu hiệu hư hại. Trên boong thuyền có nhiều binh lính Nguyên Mông mặc áo giáp lamellar màu xám và đội mũ sắt hình nón hoặc tròn, một số đang chiến đấu bằng cung tên và kiếm. Phía xa có thể thấy các thuyền chiến khác đang bốc cháy và những cột cọc gỗ nhọn nhô lên khỏi mặt nước sông màu xám đục. Bầu trời u ám với nhiều khói.

Chiến thuyền Nguyên Mông tiến vào sông sông Bạch Đằng

Trước tình hình đó, triều đình nhà Trần một lần nữa giao trọng trách Quốc công Tiết chế – tổng chỉ huy quân đội – cho Hưng Đạo Vương Trần Hưng Đạo. Ông động viên quân dân quyết tâm qua bài “Hịch tướng sĩ” nổi tiếng; bố trí các tướng tài giữ những vị trí trọng yếu; huy động sức dân chuẩn bị thế trận lâu dài.

Tinh thần kháng chiến chống Nguyên Mông lúc này đã lên cao, cả nước sẵn sàng cho một trận quyết đấu cuối cùng để bảo vệ giang sơn.

Diễn biến trận Bạch Đằng năm 1288

Cuối năm 1287, quân Nguyên Mông ồ ạt tiến vào Đại Việt. Thoát Hoan nhanh chóng chiếm được thành Thăng Long đầu năm 1288, nhưng thành trống rỗng vì quân dân nhà Trần đã rút lui, thực hiện kế sách tiêu thổ kháng chiến. Không tìm thấy lương thực trong thành, quân xâm lược lâm vào cảnh thiếu lương trầm trọng. Chúng phải chia quân đi cướp phá các làng mạc vùng đồng bằng Bắc Bộ để tìm lúa gạo, nhưng vấp phải sự kháng cự quyết liệt của dân binh địa phương.

Trong khi đó, đoàn thuyền lương do Trương Văn Hổ chỉ huy vẫn chưa cập bến tiếp tế. Nắm bắt cơ hội, tướng Trần Khánh Dư – được giao trấn giữ vùng biển Đông Bắc – đã mật phục tại Vân Đồn. Vào tháng Chạp năm 1287, cánh quân của Trần Khánh Dư bất ngờ tập kích, đánh tan hạm đội chở lương thực khí giới của địch. Phần lớn thuyền lương Nguyên Mông bị đốt cháy hoặc đánh đắm trên biển Vân Đồn, số còn lại phải tháo chạy về Quảng Châu, Quảng Tây.

Đại Việt navy ambushes the Yuan supply fleet at Vân Đồn in 1288, with fire arrows, burning ships, and chaotic battle on the water.

Phục kích tại Vân Đồn (1288) – Quân Đại Việt dưới quyền Trần Khánh Dư bất ngờ tập kích đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ. Hạm đội Nguyên bị thiêu cháy, quân giặc nhảy xuống sông thoát thân trong hỗn loạn. Trận đánh này đã phá vỡ kế hoạch tiếp vận của địch, mở đường cho đại thắng Bạch Đằng.

Chiến thắng Vân Đồn đầu năm 1288 đã giáng một đòn chí mạng vào chiến lược hợp vây của giặc, đẩy đạo quân của Thoát Hoan vào thế tuyệt vọng, thiếu lương nghiêm trọng và buộc phải tính chuyện rút quân. Vua Trần Nhân Tông khi nghe tin thắng lợi này đã nhận định chính xác: “Điều quân Nguyên cần nhất là lương thực. Chúng chưa biết đoàn thuyền lương bị tiêu diệt nên có thể còn hung hăng, nhưng trước sau gì cũng sẽ rút lui vì đói”.

Quả đúng như vậy, đến tháng 3/1288, Thoát Hoan quyết định rút quân khỏi Thăng Long để tránh sa lầy và bảo toàn lực lượng. Tháng 4 năm 1288, đại quân Nguyên Mông bắt đầu rút chạy về nước. Thoát Hoan chia quân làm hai ngả: y dẫn tàn quân bộ binh men theo đường Lạng Sơn về Quảng Tây, còn đạo thủy quân do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy thì rút theo đường sông Bạch Đằng để ra biển.

Đây chính là thời điểm Trần Hưng Đạo cùng quân dân Đại Việt tổng phản công. Từ trước đó, Trần Hưng Đạo đã bí mật chuẩn bị trận địa mai phục trên sông Bạch Đằng – con sông chiến lược ở phía đông bắc, nơi cửa ngõ thông ra biển. Ông đoán trước quân địch sẽ rút theo thủy lộ này và quyết định chọn đây làm nơi quyết chiến lược.

Ngược dòng lịch sử, sông Bạch Đằng từng chứng kiến chiến thắng oanh liệt năm 938 của Ngô Quyền trước quân Nam Hán, cũng bằng một trận thủy chiến lợi dụng địa hình lòng sông hẹp và thủy triều lên xuống. Trần Hưng Đạo đã nghiên cứu kỹ chiến thuật của tiền nhân và điều kiện sông nước Bạch Đằng, rồi táo bạo vận dụng với quy mô lớn hơn.

Từ tháng 3/1288, ông huy động quân dân địa phương đẵn gỗ, bịt sắt nhọn đầu cọc, đem đóng xuống lòng các cửa sông và lạch nước ở khu vực Bạch Đằng Giang. Hàng nghìn chiếc cọc gỗ lim, táu, sến được cắm xuống theo thế trận mai phục, bố trí dày đặc tại những nơi hiểm yếu mà quân địch buộc phải đi qua. Theo sử sách, bãi cọc được bày thành trận đồ lợi hại, cắm theo hình chữ chi và nghiêng về phía thượng nguồn để đón hướng nước triều rút.

Bên cạnh trận địa cọc ngầm, Trần Hưng Đạo còn bố trí thủy quân tinh nhuệ mai phục sẵn ở các nhánh sông kín đáo và hai bên bờ, sẵn sàng khóa chặt đường thoát của địch. Đồng thời, ông ra lệnh dựng chướng ngại vật, phá cầu đường bộ để chặn đường cứu viện của giặc từ hai bên bờ. Tất cả chuẩn bị chu đáo đã hoàn tất, chỉ còn đợi quân địch sa bẫy.

Hàng loạt cọc gỗ nhọn đã được cắm ngầm dưới lòng sông Bạch Đằng, tạo thành bãi chướng ngại vật chết người để bẫy hạm đội quân Nguyên Mông năm 1288. Những chiếc cọc lim, sến này được phát hiện qua khai quật khảo cổ, xác nhận quy mô và vị trí trận địa mà Trần Hưng Đạo bày ra trên sông Bạch Đằng.

Sáng sớm ngày 9 tháng 4 năm 1288 (tức mùng 8 tháng Ba âm lịch), trận Bạch Đằng lịch sử diễn ra trong bầu không khí sương mù bảng lảng trên sông nước. Thủy triều đang lên cao, dòng sông mênh mang như nuốt trọn những bãi cọc gỗ ẩn mình dưới mặt nước. Từ thượng nguồn, đoàn chiến thuyền Nguyên Mông ken dày kín cả khúc sông, cờ xí rợp trời, hùng hổ xuôi về biển theo lệnh rút quân.

Lược đồ trận địa và các bãi cọc trong chiến thắng quân Nguyên Mông của Quân đội Đại Việt năm 1288 trên sông Bạch Đằng. Trên lược đồ chỉ ghi nhận các bãi cọc được biết đến trước năm 2010.

Lược đồ trận địa và các bãi cọc trong chiến thắng quân Nguyên Mông của Quân đội Đại Việt năm 1288 trên sông Bạch Đằng. Trên lược đồ chỉ ghi nhận các bãi cọc được biết đến trước năm 2010.

Thoạt nhìn, mặt nước Bạch Đằng có vẻ yên ả, không một bóng quân Trần cản đường, khiến giặc càng chủ quan thúc buồm chèo thuyền nhanh hơn. Nhưng khi đoàn thuyền lọt vào đoạn sông định trước, phục binh Đại Việt lập tức xuất kích. Bất thình lình, hàng loạt thuyền nhỏ, cơ động của thủy quân Trần từ các lạch sông phụ cận lao ra tập kích vào sườn đội hình địch.

Tiếng tù và rúc lên lanh lảnh, tiếng trống trận dồn dập vang xa, hòa với tiếng chèo khua sóng nước và tiếng tên đạn rít gió xé trời. Quân Trần ào ạt tấn công rồi nhanh chóng rút lui, vờ tạo cảm giác như chúng chỉ là lực lượng quấy rối yếu ớt. Thấy vậy, đô đốc Ô Mã Nhi khinh thường liền đốc thúc toàn bộ hạm đội đuổi theo quân ta, tràn thẳng vào hạ lưu.

Đúng lúc đó, con nước bắt đầu rút mạnh. Bất ngờ, thủy triều xuống nhanh khiến mực nước sông tụt giảm, phơi bày vô số cọc gỗ tua tủa nhô lên giữa lòng Bạch Đằng. Thì ra, đoàn thuyền của Ô Mã Nhi đã sa vào trận địa mai phục được sắp đặt sẵn của Trần Hưng Đạo. Nước rút lộ cọc, dòng chảy hẹp lại và dòng sông lập tức biến thành bãi tử địa: những cột gỗ bịt sắt đâm thủng đáy thuyền giặc.

Một bức tranh minh họa trận Bạch Đằng 1288, binh sĩ Đại Việt mặc giáp trụ truyền thống bắn tên từ thuyền nhỏ, đối đầu với quân Nguyên giữa đầm lầy cọc nhọn, nền trời khói lửa.

Quân Đại Việt trên những chiến thuyền nhỏ, linh hoạt tấn công dữ dội vào hạm đội Nguyên Mông giữa sông Bạch Đằng. Các cung thủ bắn tên dồn dập, trong khi cọc nhọn đã được bố trí sẵn lộ ra, đánh dấu thời điểm quyết định của trận chiến.

Tiếng va chạm chát chúa vang lên khi thân các chiến thuyền to lớn của quân Nguyên lao phải trận địa cọc. Nhiều thuyền rỉ nước, chao đảo rồi vỡ toác, quân địch rối loạn la hét vang trời. Ngay lập tức, đại quân thủy bộ của ta từ bốn phía ập tới phản công mãnh liệt. Pháo hiệu bắn lên đỏ rực cả khoảng trời, báo hiệu giờ tổng tiến công đã điểm.

Từ thượng lưu, một loạt chiến thuyền cảm tử của quân Trần lợi dụng nước xuôi dòng lao thẳng vào đội hình địch như những mũi tên bén nhọn. Từ hai bên bờ, hàng nghìn cung thủ và nỏ thủ phục sẵn đồng loạt trút mưa tên xuống đầu giặc. Lửa được phóng sang thuyền địch, bén vào cánh buồm và sàn gỗ, nhanh chóng bốc cháy ngùn ngụt.

Một bức tranh hoành tráng mô tả đoàn thuyền Nguyên mắc vào bãi cọc dưới sông Bạch Đằng, đang bốc cháy, binh sĩ hoảng loạn trong lúc quân Đại Việt vây kín, cờ hiệu “東” tung bay trước mũi thuyền.

Khi thủy triều rút, bãi cọc sắt nhọn nhô lên giữa sông Bạch Đằng, khiến đoàn thuyền Nguyên vướng mắc. Quân Đại Việt đồng loạt bắn pháo hỏa, giáo mác, hô xung phong. Cờ hiệu “Đông” tung bay thể hiện khí thế đánh giặc bảo vệ quốc thổ.

Khung cảnh trở nên hỗn loạn cực độ: tiếng gỗ cháy nổ tí tách, tiếng quân sĩ Trần hò reo vang dội, tiếng quân Mông – Nguyên gào thét kinh hoàng. Hạm đội xâm lược vốn hùng hổ là thế, giờ đây bị dồn vào tử lộ chật hẹp, tiến thoái đều không được. Nhiều thuyền giặc lớn bị cọc đâm thủng bụng mắc cạn giữa sông làm chướng ngại, những thuyền phía sau đâm vào thuyền phía trước vỡ tan.

Quân địch hoảng sợ nhảy ào xuống sông tìm đường thoát thân thì bị quân ta mai phục sẵn trên thuyền nhỏ, thuyền nan dùng giáo mác, đao kiếm giết chết hoặc bị dòng nước xiết cuốn trôi. Cả khúc sông Bạch Đằng đặc quánh khói lửa và xác thuyền giặc. Trận đánh lịch sử ấy kéo dài từ sáng sớm đến xế chiều mới kết thúc.

Một bức tranh mô tả toàn cảnh trận Bạch Đằng 1288 từ góc nhìn trên cao. Thuyền quân Nguyên bốc cháy giữa lòng sông bị bao vây bởi thuyền Đại Việt, Trần Hưng Đạo đứng trên cao chỉ huy.

Từ một mỏm đá cao ven sông, Hưng Đạo Đại Vương quan sát toàn cục trận đánh. Lực lượng Đại Việt chủ động mai phục, phát động tấn công đồng loạt, tiêu diệt hạm đội Nguyên bằng hỏa công và chiến thuật bãi cọc. Đây là một trong những khúc tráng ca oanh liệt bậc nhất trong sử Việt.

Kết cục, toàn bộ hạm đội thủy quân Nguyên Mông bị tiêu diệt hoàn toàn. Hàng vạn quân địch bị tiêu diệt trên sông, xác chất đầy khúc Bạch Đằng, nước sông đỏ ngầu vì máu giặc. Quân dân ta đã bắt sống tướng giặc Ô Mã Nhi cùng nhiều tướng lĩnh khác, còn tướng Phàn Tiếp thì nhảy xuống sông chết xác không tìm thấy. Khoảng 400 chiến thuyền địch bị quân ta thu giữ làm chiến lợi phẩm.

Một bức tranh cổ điển mô tả viên tướng giặc mặc giáp Mông Cổ rách nát, cúi đầu trong thất bại, bị hai lính Đại Việt mặc giáp truyền thống áp giải, thể hiện cảnh bắt sống Ô Mã Nhi theo cách ẩn dụ.

Trong ánh sáng xế tà phủ lên chiến địa, viên tướng giặc bị giáp rách áo sờn, tay không buông thõng, ánh mắt hoảng hốt. Hai quân sĩ Đại Việt uy nghiêm áp giải hắn về dinh, mặt giữ chính khí, lưng thẳng như thành đồng. Bức họa gợi lại cảnh Ô Mã Nhi bị bắt sống sau trận đại bại trên sông Bạch Đằng,

Cùng thời điểm đó, trên bộ, cánh quân rút chạy của Thoát Hoan bị quân Trần phục kích liên tục trên đường về qua Lạng Sơn. Phần lớn bộ binh Nguyên Mông cũng bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh; Thoát Hoan thân vương hoảng hốt chui vào ống đồng lần nữa để lẩn trốn sự truy sát của quân ta và may mắn thoát về tới biên giới.

Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ ba kết thúc hoàn toàn thắng lợi. Chiến thắng Bạch Đằng 1288 đã đi vào lịch sử như một bản anh hùng ca vĩ đại, trong đó đỉnh cao là trận thủy chiến lẫy lừng trên sông Bạch Đằng – một trong những trận đánh oai hùng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.


Khám phá thêm từ Đường Chân Trời

Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.

Lên đầu trang