Lịch Sử Hành Chính Sài Gòn

Share this post on:

Trong bối cảnh hiện nay, Nhà nước đang chủ trương sáp nhập, tinh gọn các đơn vị hành chính để tối ưu hóa quản lý, nhiều tên gọi địa phương có nguy cơ bị thay đổi hoặc xóa bỏ. Việc điều chỉnh địa giới hành chính, hợp nhất các phường, xã hay thậm chí tỉnh, thành giúp bộ máy vận hành hiệu quả hơn, nhưng đồng thời cũng đặt ra thách thức về bảo tồn bản sắc và căn cước địa phương. Mỗi tên gọi phường, xã, quận, tỉnh không chỉ là một danh xưng hành chính khô khan, mà còn kết tinh bề dày lịch sử, văn hóa của cộng đồng cư dân nơi đó. Nhìn lại lịch sử địa danh Sài Gòn – Gia Định xưa là một cách để hiểu rõ hơn căn tính vùng đất và con người nơi đây, từ đó giúp công tác quản trị đô thị gắn liền với việc bảo tồn di sản văn hóa địa phương.

Sài Gòn – thành phố hơn 300 năm tuổi – có quá trình hình thành và phát triển gắn liền với những biến đổi về phân chia hành chính qua các thời kỳ lịch sử. Từng tổng, xã, quận xưa của vùng đất Sài Gòn – Gia Định không chỉ là những đơn vị quản lý, mà còn phản ánh câu chuyện mở cõi, xây dựng và quản lý đô thị của nhiều thế hệ. Trong tiến trình đó, nhiều địa danh cổ đã thay đổi hoặc dần phai nhòa, nhưng cũng có những tên gọi vẫn trường tồn đến hôm nay, trở thành một phần không thể thiếu của ký ức đô thị.

Bài viết này sẽ trình bày một cách có hệ thống về lịch sử phân chia hành chính Sài Gòn trước năm 1975, qua ba giai đoạn chính: thời nhà Nguyễn (trước 1862), thời Pháp thuộc (1862–1954) và thời Việt Nam Cộng hòa (1955–1975). Tiếp đó, chúng ta sẽ đi sâu liệt kê và phân tích cụ thể các tổng, làng (xã) và quận tiêu biểu trong vùng Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn xưa, từ cấu trúc tổ chức tổng – xã, danh sách những tổng nổi bật như Bình Trị Thượng, Dương Hòa, Thông Tây Hội, An Phú… cùng sự chuyển đổi địa giới, tên gọi theo thời gian. Để minh họa cho những biến thiên đó, bài viết sẽ đưa vào một số bản đồ hành chính cổ của Sài Gòn – Gia Định qua các thời kỳ. Thông qua việc khảo cứu này, người đọc có thể thấy được tầm quan trọng của hiểu biết lịch sử địa danh trong công cuộc quản trị đô thị ngày nay, góp phần cân bằng giữa phát triển hiện đại và bảo tồn di sản địa phương.

Lịch sử phân chia hành chính Sài Gòn qua các thời kỳ

Là một vùng đất trẻ trong lịch sử Việt Nam, Sài Gòn – Gia Định đã trải qua nhiều lần thay đổi đơn vị hành chính dưới các chính quyền khác nhau. Mỗi giai đoạn để lại dấu ấn riêng trong cách tổ chức bộ máy và đặt tên địa phương. Dưới đây là khái quát về phân chia hành chính Sài Gòn theo ba thời kỳ lớn: thời phong kiến nhà Nguyễn, thời thuộc địa Pháp và thời Việt Nam Cộng hòa.

Thời nhà Nguyễn (trước 1862)

Vùng đất Sài Gòn – Gia Định bắt đầu xuất hiện trong sử Việt từ cuối thế kỷ XVII, khi chúa Nguyễn thực hiện công cuộc khai phá về phương Nam. Mốc quan trọng đầu tiên là năm 1698, Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào kinh lược đất Đồng Nai, chính thức thiết lập bộ máy hành chính Đại Việt trên vùng này. Ông đã thành lập phủ Gia Định và huyện Tân Bình, đặt nền móng cho đơn vị hành chính đầu tiên ở Sài Gòn [1]. Kể từ đó, tên gọi Gia Định trở thành tên chung chỉ vùng đất mới ở Nam Bộ. Theo nghĩa Hán – Việt, “Gia Định” có nghĩa là “sự ổn định tốt đẹp” – hàm ý vùng đất đã được trấn định một cách yên ổn [2]. Nhiều sử liệu cuối thế kỷ XIX cũng khẳng định tên gọi Gia Định xuất hiện từ rất sớm, không liên quan đến đế hiệu Gia Long (1802) như một số người lầm tưởng [2].

Sang đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long (Nguyễn Ánh) tiến hành cải tổ hành chính trên toàn quốc. Năm 1802, Gia Long đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định, đặt quan Tổng Trấn cai quản toàn bộ vùng Nam Bộ lúc bấy giờ [3]. Trấn Gia Định lúc này bao gồm 5 đơn vị gọi là ngũ trấn: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh (tức Vĩnh Long) và Hà Tiên [2]. Đến năm 1808, Gia Định trấn được nâng thành Gia Định thành (tương đương cấp tổng trấn, tương tự Bắc Thành ngoài Bắc), vẫn cai quản 5 trấn kể trên [2]. Dưới thời Tổng trấn Lê Văn Duyệt, Gia Định thành trở thành trung tâm chính trị, quân sự của toàn Nam Bộ, sở hữu tòa thành Bát Quái (còn gọi là thành Quy) kiên cố tại khu vực Bến Nghé – Sài Gòn.

Sau khi Lê Văn Duyệt qua đời (1832), vua Minh Mạng cải tổ lớn: bãi bỏ chức Tổng trấn, chia vùng Nam Bộ thành Nam Kỳ Lục tỉnh vào năm 1832–1836. Lúc này, Gia Định thành bị giải thể, thay bằng 6 tỉnh trực thuộc triều đình là: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên [2], [3]. Tỉnh Phiên An (vùng đất Gia Định cũ) ban đầu là nơi đặt dinh Tổng trấn, nhưng sau sự biến Lê Văn Khôi (1835), Minh Mạng đã cho phá thành Bát Quái. Đến 1836, tỉnh Phiên An được đổi tên trở lại thành tỉnh Gia Định [3]. Như vậy, từ 1836 đến khi thực dân Pháp xâm lược, Gia Định vừa là tên một tỉnh dưới triều Nguyễn, vừa thường được người dân dùng để chỉ chung cả miền Nam. Học giả Phạm Quỳnh năm 1918 từng viết: “Đất Gia Định là đất cổ nhất ở Nam Bộ… Cái tên Gia Định thường dùng để chỉ chung cả đất Nam Kỳ vậy” [2].

Về nội bộ hành chính, tỉnh Gia Định thời Tự Đức (1847–1862) gồm ba đơn vị trung gian gọi là phủ: phủ Tân Bình, phủ Tân An và phủ Tây Ninh [2]. Mỗi phủ lại được chia thành các huyện, dưới huyện là tổng, dưới tổng là thôn hoặc xã. Phủ Tân Bình là địa bàn trọng yếu nhất vì bao gồm vùng trung tâm Sài Gòn – Bến Nghé. Theo “Đại Nam nhất thống chí”, phủ Tân Bình quản hạt 3 huyện với tổng cộng 18 tổng trực thuộc [4]:

  • Huyện Bình Dương: có 6 tổng là Dương Hòa Thượng, Dương Hòa Hạ, Dương Hòa Trung, Bình Trị Thượng, Bình Trị Hạ và Bình Trị Trung [4]. Những tổng này nằm ở vùng trung tâm và phía nam Sài Gòn – Gia Định (quanh lưu vực rạch Bến Nghé, sông Sài Gòn, sông Nhà Bè). Chẳng hạn, tài liệu xưa ghi chép các thôn Hạnh Thông, Hạnh Thông Tây, An Hội… đều thuộc tổng Bình Trị, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình [4] – đây chính là vùng Gò Vấp, Bến Nghé sau này.
  • Huyện Bình Long: có 6 tổng, trong đó sử sách liệt kê các tổng tiêu biểu như Bình Thạnh Thượng, Bình Thạnh Trung, Cầu An Hạ, Cầu An Thượng, Long Tuy Thượng và Long Tuy Trung [4]. Khu vực Bình Long huyện nằm về phía bắc và đông bắc Gia Định, tiếp giáp Biên Hòa; các địa danh sau này như Thủ Đức, Dĩ An, Hóc Môn, Củ Chi… phần lớn đều thuộc huyện Bình Long thời Nguyễn.
  • Huyện Tân Long: có 6 tổng gồm Tân Phong Thượng, Tân Phong Trung, Tân Phong Hạ, Long Hưng Thượng, Long Hưng Trung, Long Hưng Hạ [4]. Huyện này bao quát vùng phía tây và tây nam Gia Định xưa, kéo dài xuống các khu vực sau này thuộc Gò Công, một phần Long An. Chẳng hạn tổng Tân Phong Hạ, Long Hưng Hạ thời đó tương ứng vùng đất sau này là Cần Giuộc, Nhà Bè, Bình Chánh giáp ranh Sài Gòn – Chợ Lớn và Long An.

Phủ Tân An và phủ Tây Ninh tuy không nằm trong khu vực Sài Gòn ngày nay, nhưng cũng thuộc tỉnh Gia Định xưa. Phủ Tân An quản lý vùng phía tây nam (nay là Long An, Tiền Giang): gồm các huyện Cửu An, Phúc Lộc, Tân Thịnh, Tân Hòa… [4]. Phủ Tây Ninh quản lý vùng phía bắc (nay là Tây Ninh và phụ cận), được tách lập từ năm 1838 với các huyện Tân Ninh, Quang Hóa [4].

Điều đáng chú ý là mặc dù rộng lớn, nhưng địa bàn thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn sau này chủ yếu nằm gọn trong huyện Bình Dương và một phần huyện Bình Long của phủ Tân Bình nhà Nguyễn. Các tên tổng như Bình Trị, Dương Hòa chính là những đơn vị gốc tạo thành bản đồ hành chính Sài Gòn thời kỳ đầu.

Năm 1859, quân Pháp tấn công thành Gia Định, mở đầu cuộc xâm lược Nam Kỳ. Sau gần 3 năm kháng cự, triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất 1862, nhượng hẳn 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp (gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) [4]. Lúc này, bộ máy phong kiến nhà Nguyễn chấm dứt hoạt động trên đất Gia Định – Sài Gòn. Tuy nhiên, bước sang thời kỳ thuộc địa, thực dân Pháp trong những năm đầu vẫn dựa khá nhiều trên khung phân chia hành chính cũ để quản lý tạm thời. Cụ thể, Đề đốc Bonard – Thống đốc quân sự đầu tiên của Nam Kỳ – đã ban hành quyết định duy trì lược đồ hành chính tỉnh Gia Định ngay sau khi chiếm đóng, vẫn giữ 3 phủ và 9 huyện như thời Tự Đức [2]. Phủ Tân Bình khi đó được mô tả là “địa bàn gần tương ứng với Sài Gòn hiện nay” [2], phủ Tây Ninh tương ứng tỉnh Tây Ninh và một phần Long An, còn phủ Tân An tương ứng phần lớn tỉnh Long An và Tiền Giang sau này [2]. Cách tổ chức này duy trì đến năm 1867 – khi Pháp chiếm nốt 3 tỉnh Tây Nam Kỳ – thì người Pháp tiến hành cải tổ hành chính sâu rộng, xóa bỏ hoàn toàn cấp phủ, huyện của triều Nguyễn.

Thời Pháp thuộc (1862–1954)

Giai đoạn 1862–1954 chứng kiến những thay đổi lớn trong địa giới và tên gọi hành chính vùng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định. Ngay sau khi bình định được Nam Kỳ lục tỉnh (1867), chính quyền thuộc địa Pháp bãi bỏ các đơn vị hành chính cũ (phủ, huyện, tổng truyền thống) và thay thế bằng hệ thống mới theo kiểu phương Tây. Toàn bộ Nam Kỳ được chia thành các “hạt thanh tra” (inspection) do viên thanh tra người Pháp đứng đầu, tương đương cấp quận hoặc tỉnh nhỏ. Riêng các thành phố lớn như Sài Gòn, Chợ Lớn được tách ra tổ chức theo mô hình thành phố tự trị (commune).

Địa bàn Sài Gòn – Gia Định lúc này phân thành bốn đơn vị chính: Thành phố Sài Gòn, Thành phố Chợ Lớn, hạt thanh tra Sài Gòn và hạt thanh tra Chợ Lớn [2]. Trong đó:

  • Thành phố Sài Gòn được chính thức thành lập ngày 11/4/1861 theo nghị định của Thống đốc Nam Kỳ [4]. Lúc mới thành lập, thành phố Sài Gòn chỉ bao gồm một phần nhỏ đất đai (2 km²) trích từ các thôn thuộc tổng Bình Trị Thượng và Bình Trị Trung (huyện Bình Dương, phủ Tân Bình cũ) [4]. Phạm vi thành phố khi đó tương ứng khu vực trung tâm Quận 1 ngày nay, dân số khoảng hơn 10.000 người (năm 1864) [4]. Pháp trực tiếp cai trị thành phố này thông qua một Ủy hội thành phố từ năm 1867. Ranh giới giữa Sài Gòn và Chợ Lớn được xác định rõ vào 1865, theo đó Sài Gòn mở rộng lên 3 km² [4].
  • Thành phố Chợ Lớn chính thức được thành lập năm 1865, nằm cách Sài Gòn khoảng 5 km về phía tây nam. Đây là đô thị của cộng đồng người Hoa (Minh Hương, Triều Châu, Quảng Đông…) hình thành từ đầu thế kỷ XIX bên rạch Bến Nghé – Tàu Hủ. Thời thuộc địa, Chợ Lớn phát triển thành trung tâm thương mại sầm uất, độc lập về hành chính với Sài Gòn. Năm 1879, chính quyền Pháp còn tách đất tỉnh Gia Định để lập riêng tỉnh Chợ Lớn, quản lý vùng nông thôn xung quanh thành phố Chợ Lớn. Thành phố Chợ Lớn tuy riêng biệt nhưng có liên hệ mật thiết với Sài Gòn, đến mức nhiều tài liệu gọi chung là vùng “Sài Gòn – Chợ Lớn”.
  • Hạt thanh tra Sài Gòn: là đơn vị hành chính bao quanh thành phố Sài Gòn, tương đương tỉnh Gia Định trên thực tế sau 1867. Ban đầu hạt Sài Gòn quản lý phần đất còn lại của tỉnh Gia Định cũ (trừ thành phố Sài Gòn) với 2 huyện Bình Dương và Bình Long [3]. Năm 1871, địa bàn này mở rộng thêm khi Pháp nhập cả huyện Ngãi An (tức quận Thủ Đức) từ tỉnh Biên Hòa cũ sang [3]. Năm 1874, khi thành phố Sài Gòn được quy hoạch phát triển, trụ sở hành chính của hạt Sài Gòn được dời ra ngoại ô – đặt tại làng Bình Hòa (tức ngã tư Hàng Xanh, quận Bình Thạnh ngày nay) [2]. Đây chính là tiền thân của dinh Tỉnh trưởng Gia Định sau này.
  • Hạt thanh tra Chợ Lớn: tương ứng phần đất xung quanh thành phố Chợ Lớn và một số vùng phụ cận. Hạt Chợ Lớn được thành lập năm 1879 cùng với sự ra đời của tỉnh Chợ Lớn. Địa bàn hạt này tiếp giáp hạt Sài Gòn ở phía đông (ranh giới là khoảng Hóc Môn – Bình Chánh ngày nay), bao gồm các tổng Tân Phong, Cửu Cư, Long Hưng… (sau này thuộc tỉnh Chợ Lớn).

Đến năm 1885, nhằm tránh nhầm lẫn giữa tên thành phố và tỉnh, chính quyền thuộc địa đổi tên hạt Sài Gòn thành hạt Gia Định [3]. Năm 1889, toàn quyền Đông Dương bãi bỏ danh xưng “hạt thanh tra”, chuyển các hạt thành tỉnh theo hệ thống toàn Liên bang [3]. Từ đó, tỉnh Gia Định (1889–1954) chính thức tái lập, là một trong 20 tỉnh của Nam Kỳ [3]. Tỉnh Gia Định mới này có diện tích thu hẹp so với thời nhà Nguyễn, nhưng vẫn khá rộng, bao quanh Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn. Theo thống kê năm 1889, tỉnh Gia Định chia thành 18 tổng với khoảng 200 xã thôn, diện tích khoảng 1.840 km² [3]. Tỉnh lỵ Gia Định đặt tại làng Bình Hòa (sau này gọi là tỉnh Gia Định, thuộc vùng Bà Chiểu).

Về cơ cấu hành chính chi tiết, dưới tỉnh là quận (arrondissement) – một cấp trung gian mới được người Pháp thiết lập từ đầu thế kỷ XX – rồi đến tổng (cấp cũ được duy trì nhưng thẩm quyền giảm), dưới tổng là làng (xã). Giai đoạn 1911, tỉnh Gia Định có 4 quận trực thuộc: Quận Gò Vấp, Thủ Đức, Hóc Môn, Nhà Bè [2]. Mỗi quận gồm vài tổng. Chẳng hạn năm 1930, quận Gò Vấp gồm các tổng Bình Trị Thượng, Bình Thạnh Hạ, Dương Hòa Thượng [4]; quận Thủ Đức gồm các tổng An Bình, An Điền, An Thổ, An Thủy, Long Vĩnh Hạ… [4]; quận Hóc Môn có các tổng Bình Thạnh Trung, Long Tuy Thượng, Long Tuy Trung, Long Tuy Hạ [4]; quận Nhà Bè có các tổng Bình Trị Hạ, An Thịt, Dương Hòa Hạ, Cần Giờ [4]. Danh sách cụ thể các tổng và làng thời kỳ này rất phong phú, sẽ được trình bày ở phần sau. Điều đáng nói là nhiều tên tổng, làng của Gia Định thời thuộc địa vẫn bảo lưu từ thời Nguyễn (ví dụ các tổng Bình Trị, Dương Hòa, Long Tuy…), tuy ranh giới có điều chỉnh.

Một bản đồ hành chính khoảng năm 1930 dưới đây cho thấy phạm vi rộng lớn của tỉnh Gia Định so với Đô thành Sài Gòn và tỉnh Chợ Lớn cùng thời kỳ.

(Hình ảnh: Bản đồ tỉnh Gia Định khoảng năm 1930 (phần viền xanh). Vùng tô màu cam là tỉnh Chợ Lớn, bên trong vùng cam là thành phố Chợ Lớn; phía Đông Bắc vùng cam là thành phố Sài Gòn. Có thể thấy tỉnh Gia Định bao quanh toàn bộ Sài Gòn – Chợ Lớn, gồm các quận Gò Vấp, Thủ Đức, Hóc Môn, Nhà Bè…)

Thời điểm này, tỉnh Gia Định có 18 tổng với 200 làng/xã [3].

Trong quá trình cai trị, chính quyền thuộc địa cũng có những điều chỉnh địa giới để phù hợp tình hình. Năm 1944, nhận thấy vùng ven Sài Gòn phát triển đô thị mạnh, Pháp cho thành lập tỉnh Tân Bình trên cơ sở tách một phần tỉnh Gia Định. Tỉnh Tân Bình bao gồm các vùng bắc Sài Gòn như Phú Nhuận, Phú Thọ, Hạnh Thông, Tân Sơn Nhì…, cùng khu Thủ Thiêm (bên kia sông Sài Gòn) và một phần Nhà Bè [2]. Tỉnh lỵ Tân Bình đặt tại làng Phú Nhuận. Tỉnh mới này chỉ tồn tại ngắn ngủi: đến tháng 8/1945 (sau Cách mạng tháng Tám) thì bị giải thể, nhập trở lại Gia Định [2]. Tuy nhiên, sang thời kỳ Quốc gia Việt Nam (1946–1955), tỉnh Tân Bình một lần nữa được nhắc đến khi chính quyền Bảo Đại dự định cải tổ các tỉnh Nam Việt. Dẫu vậy, trên thực tế trước 1954, tỉnh Gia Định vẫn duy trì địa giới bao quanh Sài Gòn – Chợ Lớn, là vùng “nông thôn” kế cận hai đô thị này.

Song song với đó, Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn tiếp tục phát triển. Năm 1931, người Pháp sáp nhập thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn vào một đơn vị chung gọi là Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn để tiện quản lý vùng đô thị rộng lớn. Tuy hai thành phố vẫn có chính quyền riêng (Tòa Thị chính Sài Gòn và Tòa Thị chính Chợ Lớn), nhưng về quy hoạch chung được coi là một thể thống nhất Sài Gòn – Chợ Lớn. Đến năm 1941, Đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn được đặt dưới quyền một Đổng lý (Prefect) người Pháp. Giai đoạn 1945–1946 có chút xáo trộn do chiến tranh, nhưng sau đó chính quyền Pháp quay lại tiếp tục quản lý đô thành này cho tới 1954.

Như vậy, vào cuối thời Pháp thuộc, bức tranh hành chính khu vực Sài Gòn gồm: một đô thị lớn Sài Gòn – Chợ Lớn (trực thuộc chính quyền Liên bang, tương đương tỉnh đặc khu) nằm gần như lọt thỏm trong lòng tỉnh Gia Định; xung quanh nữa là các tỉnh lân cận (Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Biên Hòa…). Thực dân Pháp đã duy trì nhiều địa danh cũ (Gia Định, Sài Gòn, Chợ Lớn, các tổng Bình Trị, Dương Hòa…) nhưng cũng sáng tạo thêm những thiết chế mới (quận, tỉnh kiểu Tây). Chính sự đan xen cũ – mới đó đã tạo nên các địa danh hành chính rất độc đáo cho Sài Gòn trước 1954.

Thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng hòa (1955–1975)

Sau Hiệp định Genève 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tiếp quản miền Nam. Giai đoạn 1955–1975, hệ thống hành chính Sài Gòn lại tiếp tục biến chuyển sâu sắc. Tổng thống Ngô Đình Diệm (Đệ Nhất Cộng hòa, 1955–1963) thực hiện cải cách hành chính theo hướng tập trung quyền lực về trung ương, giảm bớt các tầng nấc trung gian.

Một thay đổi quan trọng năm 1956 là việc tổ chức lại Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn và các tỉnh xung quanh. Sắc lệnh số 143/NV ngày 22/10/1956 quy định Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn, chính thức bỏ phần tên Chợ Lớn trong đơn vị đô thị đặc biệt này [4]. Từ đây, cái tên Chợ Lớn không còn là một thực thể hành chính độc lập, mà trở thành một phần của Sài Gòn (dù trong dân gian, khu vực quận 5, 6 ngày nay vẫn quen gọi là Chợ Lớn).

Cũng trong năm 1956, chính quyền Sài Gòn tiến hành phân chia, sắp xếp lại các tỉnh: tỉnh Chợ Lớn bị giải thể, sáp nhập phần lớn vào tỉnh Gia Định và một phần vào tỉnh Long An [4], [5]. Cụ thể, quận Gò Đen (Trung Quận) của tỉnh Chợ Lớn cũ được nhập vào tỉnh Gia Định để thành lập quận Bình Chánh mới [5] – đánh dấu lần đầu tiên xuất hiện địa danh hành chính Bình Chánh (quận Bình Chánh khi đó có 3 tổng với 15 xã trực thuộc) [5]. Các xã Hưng Long, Qui Đức, Tân Quý Tây… trước thuộc tỉnh Chợ Lớn cũng chuyển sang Gia Định (sau 1975 trở thành các xã huyện Bình Chánh TP.HCM) [5].

Về phía bắc, năm 1957, tỉnh Gia Định được chia lại thành 6 quận, 10 tổng, 61 xã [5]. Đồng thời, chính quyền cắt một phần đất Gia Định để lập các tỉnh mới: phần đất phía tây bắc (quận Củ Chi) nhập vào tỉnh Hậu Nghĩa mới thành lập; phần đất phía bắc – đông bắc (một phần quận Thủ Đức) nhập vào tỉnh Bình Dương [3]. Cụ thể, quận Củ Chi được tách khỏi Gia Định nhập vào Hậu Nghĩa; một phần quận Thủ Đức (gồm địa bàn Phú Hòa) nhập vào tỉnh Bình Dương năm 1956 [3]. Sau điều chỉnh này, đến năm 1970, tỉnh Gia Định còn lại 8 quận với 74 xã, diện tích khoảng 1.499 km² [3]. Tám quận đó bao gồm: Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh, Tân Bình, Cần Giờ và Quảng Xuyên (Quảng Xuyên là quận mới tách từ Nhà Bè, quản lý vùng Cần Giờ – Long Thành giáp Biển Đông) [4], [5].

Riêng Đô thành Sài Gòn, sau 1956 được tổ chức như một đơn vị hành chính tương đương tỉnh, gồm các quận đô thị đánh số. Năm 1959, Đô thành Sài Gòn có 8 quận nội thành đánh số từ 1 đến 8 (Quận 1 đến Quận 8) và 1 quận ven đô là quận Nhì (Chợ Lớn). Đến khoảng 1962–1965, cơ cấu quận nội thành được nâng lên 10 quận (thêm Quận 9, Quận 10) do phát triển dân số. Giai đoạn Đệ Nhị Cộng hòa (1967–1975), chính quyền đô thành lại tách tiếp Quận 11 (từ Quận 5 cũ) và Quận 12 (từ Quận 8 cũ), nâng tổng số lên 12 quận nội thành [6]. Tuy nhiên, có nguồn cho rằng Sài Gòn chỉ có 11 quận đến 1975 (vì Quận 12 không chính thức hoạt động). Dù khác nhau về con số, nhìn chung Đô thành Sài Gòn thời kỳ 1965–1975 bao gồm các quận nội đô mà ta thấy tương ứng Quận 1–11 ngày nay, cùng với quận Phú Nhuận và quận Tân Bình (hai quận này được thành lập trên đất tỉnh Gia Định nhưng nhập vào Đô thành). Thật vậy, năm 1972, chính quyền tách một phần tỉnh Gia Định (gồm Phú Nhuận, Tân Sơn Hòa, Tân Sơn Nhì, một phần Gò Vấp…) nhập vào Đô thành Sài Gòn để mở rộng ranh giới đô thị. Kết quả là ngay trước 1975, Đô thành Sài Gòn bao gồm Quận 1 đến Quận 11, thêm Quận Tân Bình (quận Tân Bình khi đó quản lý nhiều phường, kể cả Phú Nhuận, Tân Sơn Nhì…) và Quận Phú Nhuận (mới thành lập). Song song đó, phần còn lại của tỉnh Gia Định vẫn tồn tại 7 quận nông thôn.

Có thể thấy thời Việt Nam Cộng hòa, sự phân chia giữa đô thành (thành phố) và tỉnh trở nên rõ: Đô thành Sài Gòn quản lý các quận nội thành đô thị, còn tỉnh Gia Định quản lý các huyện ngoại ô bao quanh. Việc phân vạch này tương tự mô hình “thành phố thuộc trung ương và tỉnh bao quanh” sau 1975. Sự khác biệt là chính quyền Sài Gòn trước 1975 vẫn duy trì đơn vị tổng trên danh nghĩa đến khoảng năm 1962. Sau cải cách hành chính 1962–1965, cấp tổng mới bị bãi bỏ, chuyển các làng thành xã trực thuộc quận. Từ đó thuật ngữ “làng” cũng đổi thành “xã” (trong đô thành thì gọi là “phường”). Ví dụ, trước 1962 người dân còn gọi làng Hạnh Thông Tây, làng Bình Hòa Xã, làng Thông Tây Hội… nhưng sau đó gọi là xã hay phường tùy thuộc đô thành hay tỉnh.

Tổng quan giai đoạn 1955–1975, mặc dù bộ máy chính quyền và tên gọi quốc gia thay đổi (từ Quốc gia Việt Nam, rồi Việt Nam Cộng hòa), nhưng địa danh cơ bản của Sài Gòn – Gia Định vẫn được kế thừa. Tên tỉnh Gia Định được chính quyền Sài Gòn duy trì suốt cho đến ngày 30/4/1975. Chỉ sau 1975, tỉnh Gia Định mới bị sáp nhập vào Sài Gòn để hình thành Thành phố Hồ Chí Minh, và tên gọi Gia Định từ đó không còn là một đơn vị hành chính chính thức [3]. Tuy nhiên, trong ký ức người dân Nam Bộ, cái tên Gia Định vẫn gợi lên nhiều hoài niệm sâu sắc về một vùng đất anh hùng và trù phú suốt hơn 300 năm [3].

Các tổng, làng, xã và quận tiêu biểu của Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn xưa

Sau khi đã điểm qua tiến trình phân chia hành chính, phần này sẽ tập trung liệt kê và phân tích cụ thể hơn những đơn vị hành chính cơ sở – tổng và làng (xã) – cùng một số quận tiêu biểu trong vùng Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn trước 1975. Đây là những tên gọi gần gũi với đời sống người dân, đồng thời phản ánh rõ nét sự chuyển biến qua các thời kỳ. Chúng ta sẽ tìm hiểu cấu trúc tổ chức tổng – làng, danh sách một số tổng tiêu biểu, sự thay đổi tên gọi của chúng theo thời gian, cũng như những địa danh nào còn tồn tại ngày nay và địa danh nào đã biến mất hoặc chỉ còn trong tài liệu cổ.

Cấu trúc truyền thống: Từ tổng đến làng xã

Tổng là một cấp hành chính trung gian truyền thống trong hệ thống phong kiến Việt Nam, nằm giữa huyện (quận) và làng (xã). Mỗi tổng bao gồm một số lượng nhất định các làng, thôn. Ở Nam Bộ, cấp tổng xuất hiện chính thức từ thời Nguyễn (đầu thế kỷ XIX) khi hệ thống hành chính được áp dụng tương tự ngoài Bắc. Các tổng thường được đặt tên theo một địa danh chính trong phạm vi, hoặc mang ý nghĩa mỹ từ. Ví dụ: tổng Bình Trị (có thể hiểu là giữ gìn sự yên ổn), tổng Dương Hòa (hòa mục trên sông nước), tổng Long Tuy (dòng sông rồng), tổng An Thủy (nơi bình yên nhiều sông nước)… Đứng đầu tổng là chánh tổng (thường do người Việt đảm nhiệm dưới thời Pháp, vì tổng là đơn vị quen thuộc với dân bản xứ).

Dưới tổng là làng, tương ứng đơn vị xã sau này. Làng là cộng đồng cư dân cơ bản, thường có hương ước, đình làng, và gắn với một địa danh cụ thể (thường lấy tên địa lý hoặc một từ mang ý nghĩa tốt đẹp). Ví dụ: làng Bình Hòa, làng Tân Định, làng An Phú, làng Phú Nhuận,… Mỗi làng có lý trưởng đứng đầu (thời thuộc địa gọi là hương trưởng), dưới nữa có các hào mục, hương chức lo việc hành chính, thuế khóa. Làng xã chính là nơi diễn ra đời sống kinh tế, văn hóa của cư dân, nên tên gọi làng thường trường tồn trong trí nhớ dân gian hơn tên tổng.

Tại vùng Sài Gòn – Gia Định xưa, do đặc thù là vùng đất mới, nhiều làng được thành lập muộn vào cuối thế kỷ XVIII – đầu XIX, dân cư không đông bằng đất Bắc, vì vậy quy mô các tổng có phần lớn (mỗi tổng gồm khá nhiều làng trên diện tích rộng). Chẳng hạn, thống kê vào năm 1889 cho thấy tỉnh Gia Định có 18 tổng với 200 xã thôn [3] – trung bình hơn 11 làng mỗi tổng. Đến năm 1939, sau nhiều biến động, tỉnh Gia Định còn 15 tổng phân bố trong 4 quận, với tổng số khoảng 123 làng [4]. Giai đoạn 1956–1960, chính quyền VNCH thu gọn dần, một số tổng được sáp nhập hoặc giải thể. Tuy nhiên, về cơ bản những tên tổng cổ vẫn lưu dấu qua các tài liệu và ký ức.

Dưới đây, chúng ta điểm qua một số tổng tiêu biểu cũng như các làng, xã, quận liên quan ở vùng Sài Gòn xưa, kèm theo sự thay đổi của chúng qua thời gian.

Những tổng và làng tiêu biểu ở Sài Gòn – Gia Định

Tổng Long Tuy: Đây là tổng nằm ở vùng ngoại vi phía bắc Gia Định, trải dọc theo sông Sài Gòn về phía thượng nguồn. Thời Nguyễn có Long Tuy Thượng, Long Tuy Trung, Long Tuy Hạ thuộc huyện Bình Long [4], bao quát phần đất rộng từ Hóc Môn – Củ Chi hiện nay sang đến một phần Trảng Bàng (Tây Ninh). Các làng tiêu biểu trong tổng Long Tuy bao gồm Tân Thông (Tân Thông Tây, Tân Thông Đông), Trung Lập, Phú Hòa Đông, Nhuận Đức, An Nhơn Tây, Phước Hiệp… Đây đều là những địa danh thuộc huyện Củ Chi ngày nay. Vùng này xưa kia đất rộng người thưa, nhiều địa danh có chữ “Tân” (mới khai phá). Qua thời gian, hầu hết tên làng vẫn được giữ làm tên xã ở Củ Chi: ví dụ xã Tân Thông Hội, Trung Lập Thượng, An Nhơn Tây, Phú Hòa Đông, Nhuận Đức… Tổng Long Tuy Hạ còn vươn sang tận bờ tây sông Sài Gòn, gồm một phần huyện Đức Hòa (Long An) ngày nay [4]. Sau 1954, khu vực Long Tuy trở thành quận Củ Chi (ban đầu thuộc Gia Định, sau tách ra Hậu Nghĩa). Tên gọi Long Tuy đến nay chỉ còn lưu trong thư tịch; thay

Tổng Bình Trị: Đây có lẽ là tổng nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Sài Gòn. Ngay từ thời Nguyễn, tổng Bình Trị đã tồn tại, chia thành Bình Trị Thượng, Bình Trị Trung, Bình Trị Hạ thuộc huyện Bình Dương, phủ Tân Bình [4]. Tên gọi “Bình Trị” hàm ý sự trị an, ổn định. Khu vực Bình Trị bao gồm phần lớn vùng đất phía bắc và tây bắc Sài Gòn xưa: từ khu Bà Chiểu, Gò Vấp cho đến một phần Tân Bình, Phú Nhuận. Vào thời Pháp, tổng Bình Trị Thượng thuộc quận Gò Vấp của tỉnh Gia Định, quản lý nhiều làng quan trọng như Bình Hòa Xã, Thạnh Mỹ Tây, Hạnh Thông Tây, An Nhơn, Thông Tây Hội… [4]. Trong đó, làng Bình Hòa Xã và Thạnh Mỹ Tây chính là hai làng hợp thành quận Bình Thạnh ngày nay (Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây nhập lại thành phường Bình Thạnh sau 1975) [2]. Làng Hạnh Thông Tây và An Nhơn thì nay thuộc quận Gò Vấp (tên Hạnh Thông vẫn được dùng cho một phường của Gò Vấp). Còn Thông Tây Hội là tên xã thuộc Gò Vấp cho đến 1975 [4]. Tổng Bình Trị Hạ thì quản lý vùng phía nam – đông nam Sài Gòn, bao gồm Phú Xuân, Nhà Bè, Thủ Thiêm, Tân Thuận… (sau này thuộc quận Nhà Bè và Quận 7). Ngày nay, tên “Bình Trị” không còn giữ ở cấp địa phương, nhưng vẫn tồn tại gián tiếp: ví dụ phường Bình Trị Đông (quận Bình Tân) lấy tên theo một thôn xưa thuộc tổng Bình Trị Hạ; chợ Bình Hòa, đình Bình Tiên… gợi nhớ các làng của tổng Bình Trị.

Tổng Dương Hòa: Cũng là một tổng lớn thời nhà Nguyễn, về sau phân thành Dương Hòa Thượng và Dương Hòa Hạ. Địa bàn Dương Hòa xưa chủ yếu là vùng nông thôn phía nam Sài Gòn, dọc theo sông Nhà Bè và sông Đồng Nai. Tổng Dương Hòa Hạ quản lý các làng ven sông như Long Thạnh, Nhơn Đức, Phú Lễ, Long Kiểng… [4], tức khu vực huyện Nhà Bè và một phần Cần Giuộc sau này. Còn tổng Dương Hòa Thượng bao gồm những làng cận kề đô thành như Phú Nhuận, Bình Hưng, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Hòa, Phú Thọ… – đây chính là các vùng Phú Nhuận, Tân Bình ngày nay [4]. Thời Pháp thuộc, tổng Dương Hòa Thượng thuộc quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định; thời VNCH, các làng thuộc tổng này được nâng cấp thành xã/phường trực thuộc đô thành Sài Gòn (ví dụ xã Phú Nhuận, xã Tân Sơn Hòa năm 1974 thuộc quận Tân Bình của đô thành [4]). Tên gọi Dương Hòa (nghĩa là “hòa mục trên sông nước”) hiện không còn trên bản đồ, nhưng một số ngôi đình, chùa cổ trong vùng Nhà Bè – Phú Nhuận có câu đối nhắc tới địa danh Dương Hòa như một vùng đất trù phú xưa. vào đó, Củ Chi (tên một ngọn đồn thời Nguyễn) trở thành tên huyện phổ biến.

  • Tổng An Bình, An Điền, An Thổ, An Thủy: Đây là nhóm các tổng có tiền tố “An” (bình yên) hình thành từ thời Minh Mạng, tập trung ở miền đông tỉnh Gia Định – tương ứng vùng Thủ Đức – Biên Hòa – Dĩ An hiện nay. Tổng An Bình gồm các làng: An Phú, Bình Lợi, Bình Thạnh, Bình Trưng, Đông Phú, Mỹ Thủy, Phú Thọ, Tân Lập [4]. Trong đó đáng chú ý có làng An Phú và Bình Trưng – chính là khu vực quận 2 (TP Thủ Đức) ngày nay; Bình Thạnh (thôn Bình Thạnh, khác với tổng Bình Thạnh ở Thủ Dầu Một) có thể tương ứng phường Thạnh Mỹ Lợi hiện nay; Phú Thọ thì nhắc đến vùng Phú Thọ Hòa sau này thuộc Tân Phú. Tổng An Điền gồm 9 làng: Bình Quới, Bình Thái, Bình Thọ, Linh Chiểu Đông, Linh Chiểu Tây, Linh Chiểu Trung, Trường Thọ, Xuân Trường, Xuân Vinh [4]. Đây chính là các làng cổ của vùng Thủ Đức: như Bình Thọ, Linh Chiểu, Trường Thọ, Xuân Trường… đến nay hầu hết đều trở thành phường thuộc TP Thủ Đức (phường Linh Chiểu, Linh Trung, Trường Thọ, Bình Thọ…). Tổng An Thổ gồm 10 làng trải từ Bình Chánh (Thủ Đức) sang Dĩ An: như Bình Chiểu, Bình Đường, Đông An, Dĩ An, Bình Phú, Bình Triệu… [4]. Ngày nay ta còn phường Bình Chiểu, Bình Triệu (Thủ Đức) và thành phố Dĩ An (Bình Dương). Tổng An Thủy gồm 14 làng, nhiều tên quen thuộc ở quận 9 cũ: An Nhơn, Tân Nhơn, Tân Ninh, Đông Yên, Phong Phú, Tân Phú, Tăng Phú, Bình Thắng… [4]. Các địa danh này nay thuộc TP Thủ Đức (phường Tăng Nhơn Phú A/B chính là Tăng Phú và Tân Nhơn xưa). Có thể thấy nhóm tổng “An” này là điển hình cho sự kế thừa địa danh: hầu hết làng xã của chúng vẫn sống trong tên phường, tên quận hiện đại.
  • Tổng Cần Giờ và An Thít: Tổng Cần Giờ xưa gồm 6 làng ven biển: Cần Thạnh, Đồng Hòa, Long Thạnh, Lý Nhơn, Tân Thạnh, Thạnh Thới [4]. Đây chính là huyện đảo Cần Giờ ngày nay (các xã đảo như Thạnh Thới, Long Thạnh về sau sáp nhập thành xã Thạnh An). Tên tổng Cần Giờ được dùng làm tên quận Cần Giờ (thuộc tỉnh Gia Định) giai đoạn 1957–1975 [4], và hiện là huyện Cần Giờ của TP.HCM. Còn An Thít (có tài liệu viết An Thịt) là một tổng nhỏ gồm 3 làng: An Thới Đông, Bình Khánh, Tam Thôn Hiệp – vùng cù lao phía đông nam Nhà Bè [4]. Tổng này ban đầu thuộc tỉnh Chợ Lớn, sau 1956 chuyển về Gia Định (quận Quảng Xuyên). Đến nay các làng của tổng An Thít vẫn là các xã thuộc huyện Cần Giờ (xã Bình Khánh, xã Tam Thôn Hiệp, xã An Thới Đông).
  • Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn và các quận nội thành: Về các quận đô thành, do chúng hình thành muộn và trực thuộc thành phố, không gọi là tổng nhưng cũng cần nhắc qua. Trước 1975, Sài Gòn có các quận đô thị đánh số (1 đến 11) và một số quận gọi tên riêng (quận Chợ Lớn, quận Phú Nhuận, quận Tân Bình…). Quận 1 tương ứng khu trung tâm hành chính hiện nay (quanh trụ sở UBND TP, Nhà thờ Đức Bà); Quận 2, Quận 4 xưa là địa bàn Quận Nhất, Quận Nhì thời Pháp; Quận 5, Quận 6 chính là khu Chợ Lớn người Hoa; Quận 3 (Tân Định) và Quận 10, Quận 11 (Phú Thọ, Hòa Hưng) vốn trước thuộc tỉnh Gia Định, sau nhập vào đô thành. Quận Phú Nhuận và Quận Tân Bình chỉ tồn tại vài năm cuối (1972–1975) do sáp nhập đất Gia Định; chúng trở thành quận chính thức của TP.HCM sau 1975. Nhiều phường nội thành Sài Gòn trước 1975 vẫn giữ tên từ các làng cổ: thí dụ phường Tân Định (lấy từ tên làng Tân Định thuộc tổng Bình Trị Thượng), phường Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Hòa (từ làng Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Hòa thuộc tổng Dương Hòa Thượng), phường An Khánh, Thủ Thiêm (từ các thôn xưa tổng Bình Trị Hạ), phường Tân Thuận (từ Tân Thuận Đông)… Điều này cho thấy sự tiếp nối giữa làng xã cổ và phường đô thị hiện đại. Ngược lại, một số tên tổng xưa ít được dùng lại, ví dụ hiếm thấy đường phố nào mang tên Bình Trị, Dương Hòa – có lẽ do chúng quá rộng, không gắn với một địa điểm cụ thể.

Tóm lại, hệ thống tổng – làng của Sài Gòn xưa rất đa dạng, phong phú, đan xen giữa tầng lớp cư dân bản địa và người nhập cư (Việt, Hoa, Khmer…). Nhiều địa danh đã biến mất hoặc chỉ còn trong tài liệu, nhưng cũng không ít tên vẫn “sống” qua việc trở thành tên quận, huyện, phường, xã ngày nay. Chẳng hạn: Gia Định không còn là tỉnh, nhưng còn bệnh viện Nhân Dân Gia Định, chợ Gia Định; Thủ Đức từ tên một ngôi thủ (đồn canh) đã thành tên thành phố; Hóc Môn, Củ Chi, Nhà Bè, Bình Chánh vốn là tên làng, tên chợ, nay đều là huyện của TP.HCM. Ngược lại, những tên như Bình Trị, Long Tuy, Dương Hòa, Tân Long đã lùi vào lịch sử, nhường chỗ cho tên mới. Sự kế thừa và đổi thay địa danh này là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hóa và biến động chính trị.

Bản đồ hành chính Sài Gòn – Gia Định qua các thời kỳ

Để hình dung rõ hơn sự biến đổi địa giới và đơn vị hành chính Sài Gòn, dưới đây là một số bản đồ cổ tiêu biểu:

Bản đồ Gia Định năm 1815 do GTra62n Văn Học vẽ

Bản đồ Gia Định năm 1815 do Trần Văn Học vẽ

Bản đồ tỉnh Gia Định khoảng năm 1930

Bản đồ tỉnh Gia Định khoảng năm 1930

  • Bản đồ Gia Định năm 1815 do Trần Văn Học vẽ (phục dựng từ “Địa chí văn hóa TP.HCM”). Bản đồ thể hiện thành Bát Quái ở trung tâm (ô vuông giữa hình), xung quanh là các thôn làng chính thuộc phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Có thể thấy ghi chú: “嘉定省 – Phủ Tân Bình” ở giữa; các tổng Bình Trị Thượng, Bình Trị Trung, Dương Hòa Thượng… và các huyện Bình Dương, Tân Long được đánh dấu. Đây là tư liệu quý cho biết cơ cấu hành chính và cư dân Gia Định – Sài Gòn trước khi người Pháp xâm chiếm [7]. Hình trên cho thấy phủ Tân Bình (嘉定省府新平) với hai huyện Bình Dương (平陽縣) và Tân Long (新隆縣). Thành Bát Quái (八卦城) nằm trên bờ bắc rạch Bến Nghé (sông Tân Bình), là trung tâm hành chính quân sự. Phía đông thành là thôn Tân Định (新定), phía bắc thành có Gò Vấp (ghi chú Hanh Thông 社 – xã Hạnh Thông, thuộc Gò Vấp) [7]. Bên phải bản đồ (phía đông) thấy ghi tổng Bình Trị Thượng và huyện Bình Dương; phía dưới có tổng Bình Trị Hạ chạy dọc sông Nhà Bè; bên trái (tây) có tổng Long Hưng Thượng, Tân Phong Hạ (thuộc huyện Tân Long). Những địa danh như Chợ Sài Gòn, Chợ Quán, Khánh Hội, Thị Nghè, An Thông, Tân Thuận… cũng đã xuất hiện. Như vậy, bản đồ này phản ánh một Sài Gòn – Gia Định năm 1815 với các tổng Bình Trị, Dương Hòa, Long Hưng, Tân Phong… đặt cơ sở cho phân chia hành chính về sau.
  • Bản đồ năm 1930 (Hình đã trình bày ở trên) cho thấy tỉnh Gia Định ôm trọn quanh Đô thành Sài Gòn (Ville de Saigon) và Chợ Lớn (Ville de Cholon). Các ranh giới tổng không được vẽ trên bản đồ này, nhưng ranh giới quận thì có: phía bắc là quận Thủ Đức, tây bắc quận Hóc Môn, tây nam quận Bình Chánh (lúc này thuộc tỉnh Chợ Lớn), đông nam quận Nhà Bè. Bản đồ cũng cho thấy mạng lưới giao thông (đường xe lửa Sài Gòn – Gò Vấp – Hóc Môn [2], các quốc lộ 13, 1…), địa hình sông ngòi kênh rạch dày đặc ở vùng Nhà Bè – Cần Giờ, v.v.
  • Bản đồ quân sự và hành chính Việt Nam Cộng hòa (khoảng 1967): Sau năm 1954, do việc chia cắt và thay đổi địa giới, rất tiếc không có nhiều bản đồ chi tiết được công bố rộng rãi. Tuy nhiên, một số bản đồ quân sự và hành chính Việt Nam Cộng hòa cho thấy hình ảnh Sài Gòn – Gia Định cuối thập niên 1960. Chẳng hạn, bản đồ hành chính năm 1967 vẽ các ranh giới tỉnh Gia Định và Đô thành Sài Gòn rất rõ: đô thành Sài Gòn gần như là một “đảo” ở giữa, xung quanh bốn phía là tỉnh Gia Định (trừ mặt đông giáp sông Đồng Nai và tỉnh Biên Hòa). Trên bản đồ này, người ta thấy phía tây nam Gia Định có phần “lồi” ra – đó chính là quận Bình Chánh mới nhận từ tỉnh Chợ Lớn cũ; phía đông nam là quận Quảng Xuyên (Cần Giờ). Bản đồ 1967 cũng đánh dấu các vị trí đô thị hóa nhanh (Phú Nhuận, Tân Sơn Nhất, Thủ Đức) so với vùng nông thôn (Củ Chi, Hóc Môn). Đó là cơ sở để chính quyền Sài Gòn mở rộng địa giới đô thành về sau.

Giá trị của địa danh cũ trong quản trị đô thị và bảo tồn văn hóa

Lịch sử phân chia hành chính Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn cho thấy sự thay đổi không ngừng của các đơn vị tổng, xã, quận qua hơn hai thế kỷ. Mỗi lần thay đổi phản ánh một bước ngoặt lịch sử – từ thời mở cõi khẩn hoang, thời thuộc địa đến thời đô thị hóa hiện đại. Những địa danh hành chính xưa, dù có thể không còn trên bản đồ hành chính hiện tại, vẫn lưu giữ ký ức văn hóa – lịch sử quý giá. Hiểu rõ nguồn gốc và ý nghĩa các tên gọi này giúp chúng ta trân trọng hơn di sản cha ông để lại, từ đó thận trọng hơn khi tiến hành những cải cách hành chính ngày nay.

Trong công cuộc quản trị đô thị hiện đại, việc sáp nhập hay điều chỉnh địa giới là cần thiết để phù hợp đà phát triển. Song, nếu không cân nhắc yếu tố lịch sử – văn hóa, chúng ta có thể vô tình xóa nhòa bản sắc địa phương. Những tên gọi như Gia Định, Thủ Thiêm, Hóc Môn, Nhà Bè, Củ Chi… không đơn thuần là địa danh, mà còn gắn liền với những câu chuyện hình thành cộng đồng, với truyền thống đấu tranh và xây dựng của vùng đất Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. Việc lựa chọn giữ lại hay thay đổi một địa danh cần đi kèm với nghiên cứu kỹ lưỡng về bề dày lịch sử của nó.

Nhìn từ bài học quá khứ, có thể thấy sự linh hoạt nhưng cũng đầy trân trọng của cha ông trong đặt tên và điều chỉnh đơn vị hành chính. Triều Nguyễn duy trì tên Gia Định như một “tên tốt” được ban tặng, người Pháp dù vẽ lại bản đồ nhưng vẫn hiểu giá trị của những Bình Hòa, Tân Định, Phú Nhuận, và chính quyền Việt Nam Cộng hòa khi mở rộng Sài Gòn cũng đã khéo léo dùng lại những tên quen thuộc (Phú Nhuận, Tân Bình…). Nhờ đó, sợi dây liên tục về địa danh không bị đứt đoạn, người dân dễ dàng thích nghi với thay đổi.

Ngày nay, công tác quản lý đô thị đòi hỏi tầm nhìn hướng tới tương lai, nhưng cũng rất cần cái nhìn quá khứ. Việc nghiên cứu lịch sử các tổng, xã, quận xưa của Sài Gòn không chỉ phục vụ giới sử học, mà còn mang ý nghĩa thực tiễn: giúp các nhà quy hoạch hiểu rõ đặc điểm từng khu vực, giúp chính quyền nhận diện những giá trị văn hóa cần bảo tồn khi tiến hành sát nhập hay đổi tên địa phương. Một quyết sách hợp lòng dân phải dựa trên sự thấu hiểu cội rễ và tình cảm gắn bó của cộng đồng với quê hương mình.

Tóm lại, bản sắc đô thị Sài Gòn – TP.HCM hôm nay được tạo nên từ lớp lớp trầm tích địa danh, đơn vị hành chính qua dòng thời gian. Việc trân trọng và khai thác kho tàng địa danh cũ một cách khoa học sẽ đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển bền vững của thành phố. Đúng như câu nói của Phạm Quỳnh năm 1918 khi ca ngợi Gia Định xưa: “Đất Gia Định là đất cổ nhất Nam Bộ, có quan hệ lịch sử bản triều nhiều lắm” [2]. Hiểu rõ điều đó, chúng ta sẽ biết quý giá trị của từng tấc đất, từng tên làng – không chỉ để nhớ về quá khứ vàng son, mà còn để kiến tạo tương lai đô thị mang đậm căn cước và hồn cốt riêng.

Tài liệu tham khảo:

[1] Lê Nguyễn. Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Phạm Quỳnh. (1918). Một tháng ở Nam Kỳ.

[3] Lịch sử hành chính TP.HCM.

[4] Địa chí văn hóa TP.HCM; Trịnh Hoài Đức. Gia Định thành thông chí ; Nguyễn Đình Đầu. Nghiên cứu địa danh Sài Gòn – Gia Định ; Tài liệu lưu trữ về quản lý đô thị Sài Gòn (1954–1975).

[5] Lịch sử hành chính các đơn vị hành chính trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

[6] Lịch sử các đơn vị hành chính thuộc Đô thành Sài Gòn.

[7] Trần Văn Học (phục dựng). Bản đồ Gia Định năm 1815.


Khám phá thêm từ Đường Chân Trời

Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.

Author: Trương Minh Đăng

Trương Minh Đăng, một giáo viên Lịch sử tận tâm, hiện đang sống và làm việc tại thành phố Huế. Tôi có niềm đam mê sâu sắc với lịch sử và địa lý, hai lĩnh vực mà tôi có thể thảo luận hàng giờ mà không cảm thấy mệt mỏi. Ngoài giờ lên lớp, tôi còn dành thời gian nghiên cứu và chia sẻ kiến thức về hai lĩnh vực này trên các diễn đàn và mạng xã hội.

Là một người Công giáo, đức tin đã hình thành nên những giá trị cốt lõi trong cuộc sống của tôi, thôi thúc tôi không ngừng cống hiến cho việc giáo dục và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Tôi tin rằng, thông qua giáo dục, chúng ta có thể khơi dậy tiềm năng và truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, tạo nên những thay đổi tích cực cho cộng đồng và đất nước.

View all posts by Trương Minh Đăng >