Vào lúc mà hầu hết các môn đệ đều hoảng loạn rút lui, khi đám đông gào thét đóng đinh, khi quyền lực sự dữ tưởng như đã chiến thắng, thì lại có hai con người tưởng như mờ nhạt, bước ra trong chính bóng tối ấy – để làm một điều ngỡ như đơn giản, nhưng lại trở thành hành vi tuyên xưng đức tin mạnh mẽ nhất trong giờ đen tối nhất: xin xác Chúa Giê-su và an táng Người một cách xứng hợp.
Thank you for reading this post, don't forget to subscribe!Đó là Thánh Giu-se thành Arimathê và Thánh Ni-cô-đê-mô – những con người không theo Chúa giữa ban ngày, nhưng đã bước ra khi cả trời đất lặng câm trong bóng tối của đồi Can-vê. Họ không giảng đạo, không làm phép lạ, không thuộc nhóm Mười Hai, nhưng họ đã dâng tấm lòng, thời gian, danh dự, và chính bản thân mình để lo liệu cho Thân Mình Thánh của Đức Giê-su Ki-tô.

Tranh minh họa do Imagen 3 tạo theo phong cách Phục Hưng: hai vị thánh đứng bên nhau, mặc thánh phục, tay nâng khăn liệm Chúa với ánh sáng dịu nhẹ và biểu cảm sâu sắc.
Thánh Giu-se thành Arimathê: Người môn đệ âm thầm của công chính
Thánh Giu-se là một người giàu có và được kính trọng trong xã hội Do Thái thời bấy giờ. Ông xuất thân từ thành Arimathê, và là một thành viên trong Thượng Hội Đồng – tức thuộc giới lãnh đạo tôn giáo cao cấp nhất. Tuy ở vị trí quyền lực, ông lại được các sách Tin Mừng đồng loạt mô tả là “người lương thiện và công chính”, một người “trông đợi Nước Thiên Chúa” (x. Lc 23,50; Mc 15,43).
Chúng ta không biết rõ ông bắt đầu tin Đức Giê-su từ khi nào. Có lẽ là sau những lần nghe Chúa giảng trong Đền Thờ, hoặc sau khi chứng kiến những hành vi đầy uy quyền nhưng đầy lòng thương xót của Người. Nhưng ông đã không đi theo Chúa cách công khai. Tin Mừng Gio-an nói rõ: “ông là môn đệ của Đức Giê-su, nhưng cách kín đáo vì sợ người Do Thái” (Ga 19,38).
Thế nhưng, khi Đức Giê-su chết – một cái chết tưởng như thất bại, ô nhục và nguy hiểm – thì chính ông lại đứng lên xin Philatô cho phép an táng Chúa, dâng luôn ngôi mộ đá mới do ông chuẩn bị cho chính mình. Đó là một cử chỉ cao quý, đầy lòng can đảm, vượt lên cả nỗi sợ và danh dự. Ông không làm phép lạ, nhưng ông ôm lấy Xác Chúa – Thân Mình Thánh Thiêng – và cẩn thận mai táng Người bằng cả trái tim.

Thánh Giu-se thành Arimathê – người xin xác Chúa Giê-su và an táng Người, được khắc họa theo phong cách thánh họa Byzantine cổ điển. Ảnh do Dalle 3 tạo
Truyền thống kể rằng sau biến cố Phục Sinh, ngài công khai sống đức tin, chịu nhiều bách hại, và cuối cùng ra đi trong danh thơm của một người môn đệ đích thực. Nhiều tài liệu cổ cho biết ngài được Hội Thánh sơ khai kính trọng, và ngày nay, ngài được tưởng nhớ vào ngày 31 tháng 8 trong lịch Công giáo Roma.
Thánh Ni-cô-đê-mô: Người trí thức tìm gặp ánh sáng giữa đêm
Nếu Giu-se là hình ảnh của sự công chính thầm lặng, thì Ni-cô-đê-mô lại là biểu tượng của một trí thức tìm kiếm chân lý cách nghiêm túc và sâu sắc. Ông là một người Pharisêu, một giáo sĩ học cao hiểu rộng, và cũng là thành viên Thượng Hội Đồng. Điều đáng quý là ông đã chủ động đến gặp Đức Giê-su – nhưng là vào ban đêm (Ga 3,1).
Chúng ta không quên cuộc đối thoại đầy chiều sâu thần học giữa ông và Đức Giê-su trong chương 3 Tin Mừng Gio-an, nơi Chúa nói về việc “sinh ra bởi Thần Khí”, và mạc khải câu Tin Mừng nổi tiếng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16). Có lẽ ánh sáng ấy đã len vào lòng ông từ ngày đó.
Sau này, ông còn xuất hiện một lần nữa khi âm thầm bênh vực Đức Giê-su trong cuộc họp của Thượng Hội Đồng: “Luật của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe và biết rõ việc người ấy làm không?” (Ga 7,51). Dù chưa công khai theo Chúa, nhưng ông đã bước ra, nói tiếng nói công chính giữa bầu khí đầy định kiến.
Và rồi, ông xuất hiện lần cuối cùng với một hành động vĩ đại nhưng rất người: mang theo khoảng 100 cân mộc dược và trầm hương, loại hương liệu cao quý chỉ dùng cho các vị vua, để xức xác Đức Giê-su (Ga 19,39). Đó không chỉ là nghi thức, mà là một lời tuyên xưng đức tin không cần lời nói.

Thánh Ni-cô-đê-mô – người tìm đến Đức Giê-su trong đêm và mang trầm hương quý để mai táng Người, được khắc họa trong phong cách Byzantine cổ điển. Ảnh do Dalle 3 tạo
Truyền thống kể rằng ông đã bị đuổi khỏi Hội đồng, mất chức tước và bị loại ra khỏi xã hội. Nhưng ông sống và chết trong đức tin, trở thành biểu tượng cho những ai “đã đến trong đêm, nhưng ra đi trong ánh sáng”.
Ngài cũng được Hội Thánh kính nhớ vào ngày 31 tháng 8.
Những “môn đệ trong bóng tối” hôm nay là ai?
Giữa một thế giới đầy ồn ào, thị phi, và tranh giành tiếng nói, Hội Thánh vẫn cần những Kitô hữu âm thầm nhưng can đảm, như Giu-se và Ni-cô-đê-mô.
- Họ là những trí thức đang tìm kiếm chân lý giữa môi trường học thuật khắt khe, chưa công khai sống đạo, nhưng đang mở lòng với Lời Chúa.
- Họ là những người cha, người mẹ thầm lặng, không giỏi nói, nhưng sống đức tin qua từng hy sinh nhỏ bé mỗi ngày.
- Họ là những người làm việc trong môi trường không Công giáo, không thể chia sẻ đức tin cách dễ dàng, nhưng vẫn giữ lòng trung tín, sống công chính, và âm thầm làm chứng.
- Họ là những bạn trẻ đang tìm về đạo, chưa dám rửa tội vì hoàn cảnh, nhưng đã thực sự gặp Đức Ki-tô trong đêm nội tâm.
Và có lẽ, họ cũng là chúng ta, những người đôi khi sợ hãi, mệt mỏi, chùn bước, nhưng vẫn không ngừng yêu mến Đức Giê-su, vẫn cố gắng đứng về phía Người – dù là giữa bóng tối của cuộc đời.
Lời mời gọi
Hai vị thánh này không được Chúa gọi theo kiểu “Anh hãy theo Thầy!” như các Tông Đồ khác, nhưng họ đã tự nguyện bước ra khỏi bóng tối để đi theo Đức Giê-su trong giờ đau khổ nhất.
Nếu bạn cảm thấy mình còn yếu, còn thầm lặng, chưa dám sống đạo công khai… thì bạn không hề bị loại trừ. Chúa Giê-su vẫn nhìn thấy bạn – như Người đã thấy Giu-se và Ni-cô-đê-mô – và mời bạn tiến dần từ đêm sang ánh sáng, từ tin âm thầm sang tình yêu hành động.
Khám phá thêm từ Đường Chân Trời
Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.