Ngày 21 tháng 4 năm 2025, Đức Giáo hoàng Phanxicô – Vị Mục tử thánh thiện và giản dị – đã về cùng Thiên Chúa. Bản Rogito chính thức này, do Tòa Thánh công bố và nay được dịch chuẩn xác, ghi lại toàn bộ cuộc đời, sứ vụ Phêrô, và chứng tá yêu thương mà ngài để lại cho Giáo hội và toàn nhân loại.
Thank you for reading this post, don't forget to subscribe!Một hành trình khiêm hạ, một đời phục vụ Tin Mừng, một ánh sáng bất diệt giữa lòng Hội Thánh!

Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Vatican dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đang ký vào “rogito” – cuộn tài liệu ghi lại cuộc đời, thừa tác vụ và sứ vụ giáo hoàng của cố giáo hoàng, trong buổi cầu nguyện ngày 25 tháng 4 năm 2025 tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. (Ảnh: CNS/Truyền thông Vatican)
SỰ QUA ĐỜI, AN TÁNG VÀ MAI TÁNG
ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ ĐÁNG KÍNH
Khi cùng chúng ta lữ hành trong niềm hy vọng, là ánh sáng soi đường và là người đồng hành tiến về mục đích cao cả mà ta được kêu gọi—Thiên Đàng—vào ngày hai mươi mốt tháng Tư, năm Thánh hai ngàn không trăm hai mươi lăm, lúc bảy giờ ba mươi lăm phút sáng, trong khi ánh sáng Phục Sinh chiếu soi ngày thứ Hai trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh, thì Đức Phanxicô, Vị Mục Tử rất mực khả ái của Hội Thánh, đã từ giã cõi đời này để về cùng Chúa Cha. Toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, đặc biệt là những người nghèo khó, đồng thanh ca tụng Thiên Chúa vì ân huệ từ sứ vụ mà ngài đã chu toàn với lòng nhiệt thành và trung tín đối với Tin Mừng và Hiền Thê nhiệm mầu của Đức Kitô.
Đức Phanxicô là Giáo hoàng thứ hai trăm sáu mươi sáu. Ký ức về ngài vẫn mãi lưu lại trong trái tim của toàn thể Hội Thánh cũng như toàn nhân loại.
Jorge Mario Bergoglio, được bầu làm Giáo hoàng ngày mười ba tháng Ba năm hai ngàn không trăm mười ba, sinh tại Buenos Aires ngày mười bảy tháng Mười Hai năm một ngàn chín trăm ba mươi sáu, là con của những người di dân gốc Piedmont: thân phụ ngài, ông Mario, là kế toán viên ngành đường sắt; mẫu thân, bà Regina Sivori, chăm sóc gia đình và việc giáo dục năm người con. Sau khi đạt văn bằng kỹ thuật viên hóa học, ngài đã chọn con đường linh mục, vào Tiểu Chủng viện giáo phận, rồi ngày mười một tháng Ba năm một ngàn chín trăm năm mươi tám gia nhập nhà tập Dòng Tên. Ngài theo học ngành nhân văn tại Chile, rồi về lại Argentina năm một ngàn chín trăm sáu mươi ba, đậu bằng triết học tại Đại học Thánh Giuse ở San Miguel. Ngài dạy văn chương và tâm lý tại Trường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Santa Fé và Trường Chúa Cứu Thế tại Buenos Aires.
Ngài lãnh nhận chức linh mục ngày mười ba tháng Mười Hai năm một ngàn chín trăm sáu mươi chín do Đức Tổng Giám mục Ramón José Castellano, và ngày hai mươi hai tháng Tư năm một ngàn chín trăm bảy mươi ba, tuyên khấn trọn đời trong Dòng Tên. Sau khi chu toàn nhiệm vụ Giám đốc nhà tập Villa Barilari tại San Miguel, Giáo sư Thần học, Cố vấn tỉnh Dòng và Viện trưởng Đại học, ngài được bổ nhiệm làm Bề trên Giám tỉnh Dòng Tên Argentina ngày ba mươi mốt tháng Bảy năm một ngàn chín trăm bảy mươi ba. Sau năm một ngàn chín trăm tám mươi sáu, ngài lưu lại Đức Quốc vài năm để hoàn thành luận án tiến sĩ. Khi hồi hương, ngài được Đức Hồng y Antonio Quarracino chọn làm phụ tá thân tín. Ngày hai mươi tháng Năm năm một ngàn chín trăm chín mươi hai, Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Giám mục Phụ tá Buenos Aires, Giám mục hiệu tòa Auca. Ngài chọn khẩu hiệu giám mục Miserando atque eligendo (Chúa thương xót và tuyển chọn), và trên huy hiệu đặt ký hiệu viết tắt của Thánh danh Chúa Giêsu – IHS – biểu tượng Dòng Tên.
Ngày ba tháng Sáu năm một ngàn chín trăm chín mươi bảy, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Phó Buenos Aires và, khi Đức Hồng y Quarracino qua đời, kế vị ngày hai mươi tám tháng Hai năm một ngàn chín trăm chín mươi tám với tư cách Tổng Giám mục, Giáo chủ Argentina, Bản quyền cho tín hữu Đông Phương cư trú trong nước, và Đại Chưởng ấn Đại học Công giáo. Đức Gioan Phaolô II đã vinh thăng ngài làm Hồng y trong Công nghị ngày hai mươi mốt tháng Hai năm hai ngàn lẻ một, với nhà thờ hiệu tòa Thánh Roberto Bellarmino. Tháng Mười cùng năm, ngài làm Báo cáo viên Phụ tá trong Thượng Hội đồng Giám mục thường kỳ lần thứ mười.
Trong giáo phận mình, ngài là mục tử giản dị và rất mực yêu thương, thường xuyên di chuyển khắp nơi, cả bằng tàu điện ngầm và xe buýt. Ngài sống tại một căn hộ nhỏ và tự nấu ăn, vì luôn coi mình là một người giữa dân chúng.
Sau khi Đức Bênêđictô XVI thoái vị, ngày mười ba tháng Ba năm hai ngàn không trăm mười ba, ngài được các Hồng y họp mật nghị bầu làm Giáo hoàng, lấy tông hiệu là Phanxicô để noi gương Thánh Phanxicô Assisi, đặc biệt lo lắng cho những người nghèo khổ nhất thế giới. Từ Ban công Phép lành, ngài chào dân chúng bằng những lời:
“Anh chị em thân mến, buổi tối tốt lành! Giờ đây, chúng ta bắt đầu hành trình này—Giám mục và dân chúng. Hành trình của Giáo hội Rôma, chủ tọa trong bác ái trên tất cả các Giáo hội. Một hành trình huynh đệ, yêu thương và tin tưởng lẫn nhau.”
Và cúi đầu nói tiếp:
“Tôi xin anh chị em cầu nguyện với Chúa cho tôi: lời cầu của dân chúng xin Chúa chúc lành cho vị Giám mục của mình.”
Ngày mười chín tháng Ba, lễ trọng kính Thánh Giuse, ngài chính thức khởi đầu sứ vụ Phêrô.
Ngài luôn quan tâm tới những người nhỏ bé, bị gạt bỏ khỏi xã hội, nên ngay khi đắc cử, đã chọn cư ngụ tại Nhà Thánh Marta vì không thể thiếu sự gần gũi với dân chúng. Từ Thứ Năm Tuần Thánh đầu tiên, ngài luôn cử hành Thánh lễ Tiệc Ly ngoài Vatican, tại các nhà tù, trung tâm tiếp nhận người khuyết tật hay cai nghiện. Ngài thúc giục các linh mục luôn sẵn sàng cử hành Bí tích Thương Xót, mạnh dạn ra khỏi nhà thờ để tìm kiếm con chiên lạc, và luôn mở rộng cửa nhà thờ để đón những ai khao khát gặp gỡ dung nhan Thiên Chúa.
Ngài chu toàn sứ vụ Phêrô với lòng nhiệt thành không mệt mỏi, thúc đẩy đối thoại với người Hồi giáo và các tôn giáo khác, thường xuyên ký các tuyên ngôn chung như Văn kiện về Tình huynh đệ nhân loại tại Abu Dhabi ngày bốn tháng Hai năm hai ngàn mười chín với lãnh tụ Sunni Al-Tayyeb. Ngài thiết lập các Ngày Thế giới cho người Nghèo, ông bà, trẻ em, và Chúa Nhật Lời Chúa.
Ngài đã mở rộng mạnh mẽ Hồng y Đoàn với 163 tân Hồng y qua 10 Công nghị, và triệu tập 5 kỳ Thượng Hội đồng Giám mục. Đặc biệt, ngài luôn kêu gọi hòa bình trước các cuộc xung đột khắp nơi trên thế giới, nhất là tại Ukraina, Thánh Địa, Liban và Myanmar.
Những năm cuối đời, sức khỏe suy giảm nghiêm trọng, ngài qua đời trong an bình tại Nhà Thánh Marta, sau khi một lần cuối cùng ban phép lành Urbi et Orbi vào ngày Phục Sinh, hai mươi tháng Tư năm hai ngàn không trăm hai mươi lăm.
Đức Giáo hoàng Phanxicô để lại một chứng tá tuyệt vời về lòng nhân ái, đời sống thánh thiện và tình phụ tử đại đồng cho toàn nhân loại.
THI HÀI ĐỨC PHANXICÔ
SỐNG 88 NĂM, 4 THÁNG, 4 NGÀY
GIỮ NGÔI GIÁO HOÀNG 12 NĂM, 1 THÁNG, 8 NGÀY
Nguyện Cha Thánh mãi sống trong Đức Kitô!
Xem bản gốc tiếng Latinh tại đây
Khám phá thêm từ Đường Chân Trời
Đăng ký để nhận các bài đăng mới nhất được gửi đến email của bạn.